Qua hội thảo này, chúng ta đã thấy tầm quan trọng về phát triển hợp tác thương mại giữa hai nước, đặc biệt đây là thị trường đầy tiềm năng đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Hội thảo cũng đã cung cấp nhiều thông tin về thị trường Nhật Bản và những điều mà doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm để đạt hiệu quả kinh doanh tốt nhất trong tương lai.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Nhật Bản đã đạt được 21,1 tỉ USD trong năm 2011, tăng hơn 16% so với 16,1 tỉ USD năm 2010, trong đó xuất khẩu của Việt sang Nhật Bản đạt 10,7 tỉ USD, tăng 39% so với năm 2010. Các nhóm hàng chính của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản gồm thủy sản, thực phẩm chế biến, may mặc, đồ gỗ, dây cáp điện, hàng từ nhựa và thủ công mỹ nghệ truyền thống.
Điều các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý nhất khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản là tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm phải đặt lên hàng đầu. Ngoài ra trong khi đàm phán giao dịch sẽ phải qua giai đoạn đầu rất nghiêm ngặt, có khi phải mất rất nhiều thời gian trong việc sản xuất mẫu hàng cũng như đòi hỏi doanh nghiệp phải giữ uy tín trong từng cam kết với đối tác và thực hiện các điều khoản như đã thỏa thuận.
Đối với Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn, các công ty trong cùng hệ thống hầu hết chuyên sản xuất hàng thực phẩm đông lạnh và thực phẩm chế biến, sản xuất hàng may mặc, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ chiếm tỉ lệ lớn cho xuất khẩu thì việc quan tâm đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm, nhãn mác, bao bì là yêu cầu hàng đầu.
Nhà sản xuất Việt Nam hiện có các phương thức cung ứng hàng khác nhau vào thị trường Nhật bản.
Phương thức thứ nhất là sản xuất theo yêu cầu nhãn mác của người nước ngoài. Đó là những công ty có thương hiệu riêng và có uy tín trên thị trường Nhật Bản. Sản phẩm này sẽ được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, bao bì, cách đóng gói theo yêu cầu của người mua, những sai sót của người sản xuất sẽ là mối nguy hại và ảnh hưởng rất lớn đến thương hiệu của họ tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, với phương thức này việc đàm phán ban đầu rất nhiều thời gian, giá cả chào hàng phải tương đối không thay đổi nhiều trong năm và khi đi vào sản xuất thì hàng hóa sẽ có kế hoạch ổn định hơn và được sự hợp tác, hỗ trợ rất chặt chẽ bởi người mua hàng.
Phương thức thứ hai, thường áp dụng cho sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam hoặc hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam- loại hàng làm bằng tay sản xuất thủ công mang giá trị rất tốt đối với người tiêu dùng Nhật Bản.
Với phương thức này, nhà sản xuất Việt Nam phải chủ động trong khâu tiếp thị,chào bán hàng và cũng rất tốn kém chi phí để giới thiệu sản phẩm thông qua các hội chợ tại Nhật Bản hoặc các nước lân cận. Những sản phẩm này cần mang tính khác biệt so với các nhà cung cấp khác trong khu vực với giá cả cạnh tranh thật khốc liệt.
Vì vậy, để sản phẩm của Việt Nam càng có điều kiện vươn xa, các doanh nghiệp Việt cần có sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng về việc thâm nhập thị trường. Cần sự hỗ trợ về xúc tiến thương mại của các cơ quan trong và ngoài nước như: cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài hoặc văn phòng Jetro của Nhật Bản tại Việt Nam, các hiệp hội ngành nghề. Chúng ta cũng cần tranh thủ khai thác tối đa các điều kiện ưu đãi trong các hiệp định song phương Việt – Nhật, hiệp định đa phương để có điều kiện tiếp cận hàng của mình vào thị trường Nhật Bản một cách hiệu quả nhất.
Hiện SATRA đã có văn phòng đại diện tại Nhật Bản, văn phòng này sẽ là cầu nối trong giao thương và hỗ trợ thật hữu hiệu cho các doanh nghiệp tiếp cận khách hàng trong tương lai.
Ngô Lệ Thu (Phòng Thị trường)